1) Hiệu ứng Halo – nếu một người có ấn tượng tốt thì trong một trường hợp nào đó người đó sẽ “nhìn” vào điểm tốt của người khác. Ngược lại, khi có ấn tượng xấu thì thường xuất hiện những nỗ lực nhìn cái xấu của người khác mà không thèm để ý đến ưu điểm.
Nói đến hiệu ứng Halo, cần phải nhắc đến Hiệu ứng lan tỏa (halo effect)
Bạn có thấy rằng những người có vẻ ngoài chỉnh chu, đẹp đẽ thường được xem là thông minh hơn, thành công và nổi tiếng hơn? Đây chính là hiệu ứng lan tỏa trong tâm lý học, nói một cách nôm na là hiệu ứng từ một ấn tượng tốt.
Hiệu ứng lan tỏa cũng hữu hiệu khi ứng dụng vào marketing. Bí mật đằng sau thành công phi thường của Apple Computer? Tóm gọn trong 1 từ, đó là iPod.
Năm tài khóa 2005, doanh thu của Apple Computer tăng 68% so với năm trước. Lợi nhuận cũng tăng 384%, và cổ phiếu trên 177%. Tỉ suất lợi nhuận ròng nhảy từ 3.3% lên 9.6%, một thành tích đáng nể.
Thành công rực rỡ của Apple Computer không chỉ đến từ iPod. Thực tế, trong năm tài khóa 2005, cả iPod và iTunes cộng lại chỉ chiếm khoảng 39% doanh số của Apple. 61% đến từ tất cả những sản phẩm còn lại (máy tính, phần mềm và dịch vụ).
Máy tính Apple và các dịch vụ liên quan khác đều tăng 27% trong năm tài khóa 2005 so với năm trước. Theo các báo cáo trong ngành, Apple đã gia tăng thị phần máy tính cá nhân từ 3% lên 4%. Đây chính là hiệu ứng lan tỏa trong marketing.
2)Hiệu ứng Bruce
Trong thời gian mang thai, con cái thuộc các loài gặm nhấm thường tự phá hủy cái thai của mình khi phát hiện ra mùi của một con đực lạ. Hiệu ứng này lần đầu được phát hiện bởi một nhà động vật học người Anh Hilda Bruce, khi ông quan sát một số loài chuột, chuột đồng, lemmut, khỉ gelada và thậm chí cả sư tử. Vì nghi ngờ việc thực hiện nghiên cứu trên những loài động vật bị nhốt trong chuồng có thể dẫn đến kết quả sai, nhà nghiên cứu Eila Roberts tại đại học Michigan đã tiến hành nghiên cứu trong thế giới hoang dã. Nhưng cả hai trường hợp đều dẫn đến cùng một kết quả: tại sao một con thú mẹ có thể giết chết con mình?
Roberts dành 5 năm để nghiên cứu những con gelada ở Ethiophia, và thu thập dữ liệu từ 110 con cái trong 21 nhóm khác nhau. Sau khi phân tích những mẫu hóc môn liên quan đến việc mang thai, Roberts phát hiện ra rằng trong những nhóm có một con gelada đực thể hiện sức thống trị, rất nhiều con cái sẽ tự phá thai từ rất sớm. Những nhóm không có con đực nắm quyền có tỉ lệ sinh cao hơn. Câu trả lời là những con đực có khuynh hướng giết chết những con gelada sơ sinh, bởi con cái chỉ tiếp tục sinh sản sau khi nó không còn phải nuôi những con nhỏ nữa, và những con đực trở nên mất kiên nhẫn. Những con cái tự phá thai bởi nó biết được những đứa con thế nào cũng sẽ bị giết, làm vậy sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức.
3) Hiệu ứng Pratfall
Có lẽ đây là hiệu ứng tâm lý thú vị nhất, mà ai cũng từng trải qua, dù có nhận thức được nó hay không. Hãy tượng tượng rằng bạn đang phải lòng một cô nàng, có vẻ là người tài giỏi, tốt bụng và duyên dáng. Tình cờ bạn thấy cô ấy vấp ngã trên đường. Vì nhiều lý do, cảm xúc mà bạn dành cho nàng sẽ tăng lên, và bạn thấy rằng mình thậm chí bị thu hút hơn vì sự vụng về ấy.
Trong các lĩnh vực thể thao, kinh doanh và chính trị, hiện tượng tâm lý này được gọi là hiệu ứng Pratfall, được phân tích và đặt tên bởi nhà nghiên cứu Elliot Aronson năm 1996. Nghiên cứu cho thấy rằng chúng ta có khuynh hướng thích những người không hoàn hảo, những người mắc lỗi và biết nhận lỗi. Tuy không đúng trong tất cả mọi trường hợp, ví dụ nam giới sẽ bị thu hút trước những cô nàng vụng về hơn là chiều ngược lại, nguyên lý cơ bản ở đây là là một người sẽ dễ được yêu mến hơn nếu họ cho thấy họ vẫn có những điểm không hoàn hảo.
4) Hiệu ứng toàn cảnh
Trong số những hiệu ứng tâm lý mà chúng ta đã từng biết đến, quan sát, hay nghiên cứu, hiệu ứng toàn cảnh có thể được xem là ít phổ biến nhất – chỉ 534 người đã có cơ hội trải qua những điều kiện để cảm nhận được hiệu ứng này. Khi những nhà du hành đang ở trong quỹ đạo hay trên bề mặt của mặt trăng, nơi mà họ có thể thấy toàn bộ trái đất, nhiều người tường thuật lại rằng họ có một cảm giác rất thật về quy mô và viễn cảnh.
Được đặt tên bởi nhà văn Frank White, hiệu ứng này có thể là sự chuyển động, bối rối, hứng khởi và cảm giác mạnh, như khi nhìn thấy được toàn cảnh của trái đất. Những phi hành gia trở về với một cảm nhận hoàn toàn khác về sự kết nối của con người, sự vô nghĩa của những ranh giới văn hóa, và họ quan tâm hơn đến môi trường.
5) Hiệu ứng cầu thang – trong một bữa tiệc có ai đó sỉ nhục bạn. Bạn cần phải đáp lại một câu gì đó. Khi tất cả mọi người nhìn vào bạn, khi áp lực đè lên bạn, bạn nói điều gì đó không thuyết phục cho lắm.
Nhưng sau đó bạn đi khỏi bữa tiệc. Vào đúng khoảnh khắc nào đó, khi bạn đi xuống cầu thang chẳng hạn, thì câu nói hoàn hảo nhất xuất hiện trong đầu bạn. Và hiệu ứng đó là sự nhục nhã cuối cùng.
6) Hiệu ứng Dunning-Kruger – người có trình độ chuyên môn thấp rất tự tin, nhưng họ đưa ra kết luận sai sót, quyết định không đúng đắn mà từ đó không có khả năng nhận ra lỗi sai của mình. Ngược lại, những người có trình độ chuyên môn cao có xu hướng đánh giá thấp và thiếu tự tin về khả năng của mình hơn.
7) Hiệu ứng vịt con
Đây là nguyên tắc tâm lý về sự tò mò, con người đôi khi cư xử như một chú vịt con mới sinh, nó coi vật thể chuyển động đầu tiên nó nhìn thấy là mẹ. Trong trường hợp của con người thì chính những gì bạn “đối mặt”, nhìn thấy, cảm nhận lần đầu tiên mà làm bạn thích, trong tiềm thức bạn sẽ tin những thứ đó là chuẩn nhất và tốt nhất. Ví dụ, phim hoạt hình chúng ta xem từ khi còn nhỏ luôn hay hơn những bộ phim trẻ con xem bây giờ.
8) Hiệu ứng Pygmalion
Nếu bạn đặt niềm tin vào một thông tin nào đó, bạn sẽ vô tình hành động sao cho điều đó trở thành hiện thực. Ví dụ, nếu thử giới thiệu bạn bè của bạn một người nào đó, rồi nói rằng “cậu sẽ không thích người đó đâu”. Kết quả là bạn của bạn sẽ tỏ ra không thoải mái và cởi mở khi nói chuyện với người mới làm quen.
Theo hiệu ứng Pygmalion thì khả năng về sự kỳ vọng không được đánh giá cao. Đây là những nguyên tắc cơ bản mà bạn có thể vận dụng để thể hiện sự kỳ vọng và việc cải thiện tiềm năng của bạn tại nơi làm việc.
Bạn có thể tóm lược hiệu ứng Pygmalion, thường được hiểu là hiệu quả của sự kỳ vọng như sau:
- Mỗi nhân viên cấp trên đều kỳ vọng vào các nhân viên đang báo cáo công việc với họ.
- Nhân viên cấp trên biểu hiện sự kỳ vọng này một cách có chủ ý hoặc không chủ ý.
- Nhân viên của họ vô tình thấy được những kỳ vọng này từ cấp trên của mình một cách có chủ ý hoặc không chủ ý.
- Nhân viên sẽ thể hiện công việc sao cho phù hợp với sự kỳ vọng mà họ vô tình biết được từ cấp trên của mình.
Hiệu ứng này được miêu tả bởi J Sterling Livingston vào tháng 9 hoặc tháng 10 năm 1988 và được đăng trên tờ Harvard Business Review. “ Cách mà những nhà quản lý cư xử với cấp dưới của mình bị ảnh hưởng bởi những gì họ kỳ vọng ở chính bản thân họ ”.
9) Nói với người khác rằng bạn mua một món quà cho họ rồi bảo họ đoán món quà đó, bất kỳ câu trả lời nào đều phải nói “không đúng”, họ sẽ nói ra hết những gì họ muốn. Điều này có thể áp dụng để chọn quà sinh nhật, tặng người thân, bạn bè sau này
10) Khi bạn thức dậy trong lúc đang có giấc mơ đẹp, nhưng không thể ngủ tiếp được dù có cố gắng đến mấy, bạn thường có xu hướng tự nghĩ ra đoạn kế tiếp của giấc mơ.